Thắng cảnh Ao Bà Om
Từ lâu, ao Bà Om đã là niềm tự hào của người dân
Trà Vinh. Bên cạnh ao là ngôi chùa Âng, ngôi chùa Khmer cổ nhất Trà Vinh được
xây dựng từ năm 990, và Bảo tàng văn hoá Khmer cũng được đặt ở đây.
Trà Vinh nổi tiếng là vùng đất có bề dày truyền
thống cách mạng, là một trong những địa phương có nhiều di tích lịch sử, di
tích văn hóa, di tích kiến trúc nghệ thuật của khu vực phía Nam.
Ao Bà Om là nơi mang nhiều dấu ấn huyền thoại của thời cha ông khai phá, gầy dựng đất phương Nam.
Ao Bà Om còn có tên gọi khác là Ao Vuông, cách trung tâm tỉnh khoảng 5km, thuộc khóm 4 phường 8, thị xã Trà Vinh.Khuôn viên Ao Bà Om có diện tích hơn 100.000 m2, trong đó phần mặt ao gần 43.000 m2. Bao bọc xung quanh trên bờ ao có gần 500 cây cổ thụ, đa số là cây sao, cây dầu hàng trăm năm tuổi, có rễ trồi lên mặt đất thành những hình thù kỳ vĩ.
Di tích bước ra từ truyền thuyết của người Khmer
Đến nay, người dân Trà Vinh vẫn không biết chính xác Ao Bà Om
hình thành từ khi nào nhưng có hàng chục truyền thuyết được truyền miệng từ đời
này sang đời khác nói về Ao Bà Om. Trong đó, dưới đây là câu chuyện
được nhiều người nhắc nhất.
Theo lời kể, lúc bấy giờ, vùng đất Trà Vinh hằng năm cứ đến mùa hạn
thì nước ngọt rất khan hiếm. Ruộng rẫy khô cằn, cây cỏ vàng úa. Đời sống bà con
vùng đất này lầm than khôn cùng. Một ông hoàng trấn nhậm trong vùng bèn quy tụ
bà con lại để đào ao giữ nước ngọt.
Cùng lúc đó, trong vùng xảy ra một vụ “tranh chấp”
khó giải quyết: đàn ông và đàn bà, ai phải đi cưới ai? Ai phải chịu mọi phí tổn
trong lễ cưới? Ông hoàng nhân dịp này chia ra hai bên nam nữ tổ chức một cuộc
thi đào ao. Ao bên nào đào sâu hơn, lớn hơn và xong trước thì sẽ thắng cuộc,
bên thua sẽ phải đi cưới. Trời vừa tắt nắng, hai bên chia nhau đào ao. Bên nam thì
đào ao tròn ở phía Tây còn bên nữ đào ao vuông ở phía Đông. Bên nữ do bà Om, một
phụ nữ Khmer chỉ huy, thấy không thể kình được sức đàn ông nên bên nữ dùng “kế”:
Họ vừa đào vừa ca múa để các chàng bỏ việc mà chạy sang rình xem. Nửa đêm, bà
Om cho chặt một cây tre thật dài, treo ngọn đèn lồng rồi đem cắm ở hướng Đông.
Theo giao hẹn là khi sao Mai mọc là phải ngừng
công việc, khi bên nam thấy ngọn đèn tưởng là sao Mai nên họ rủ nhau về nghỉ.
Trong lúc đó bên nữ đào đến sáng và xong việc trước. Bên nam thua cuộc trong sự
“tâm phục, khẩu phục”. Để nhớ ơn người phụ nữ mưu trí, người ta lấy tên bà đặt
tên ao, từ đó ao phụ nữ đào được gọi là ao Bà Om.
Nhận xét
Đăng nhận xét